Chúng ta điều biết Việt Nam là nước có đông dân tộc anh em. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, các dân tộc Việt Nam cùng sinh ra trong bọc trăm trứng của Âu Cơ, một nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, cùng mở mang xây dựng non sông đất nước.
Các dân tộc Việt Nam cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, có truyền thống yêu nước, đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội, suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước. Vậy cụ thể Việt Nam có bao nhiêu dân tộc tất cả? Đó là những dân tộc nào?

Hiện nay Việt Nam có bao nhiêu dân tộc?
Hiện này trên lãnh thổ Việt Nam có tổng cộng 54 dân tộc anh em cùng sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh chiếm chiếm 86,2% dân số Việt Nam, với 78,32 triệu người. 53 dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm 13,8% dân số cả nước. (Số liệu năm 2009).

Sống trên mảnh đất Đông Dương – nơi cửa ngõ nối Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hoá trong khu vực. Dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam thuộc nhiều nhóm ngữ hệ khác nhau. Bao gồm 3 nhóm ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam Á, ngữ hệ Nam đảo, và ngữ hệ Hán – Tạng. Tiếng nói của các dân tộc cũng khác nhau do quá trình phát triển lịch sử, Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ là:
- Nhóm Việt – Mường có 4 dân tộc là: Chứt, Kinh, Mường, Thổ.
- Nhóm Tày – Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái.
- Nhóm Môn – Khmer có 21 dân tộc là: Ba na, Brâu, Bru-Vân kiều, Chơ-ro, Co, Cơ-ho, Cơ-tu, Gié-triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ mú, Mạ, Mảng, M’Nông, Ơ-đu, Rơ-măm, Tà-ôi, Xinh-mun, Xơ-đăng, Xtiêng.
- Nhóm Mông – Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà thẻn.
- Nhóm Kađai có 4 dân tộc là: Cờ lao, La Chí, La ha, Pu péo.
- Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu-ru, Ê đê, Gia-rai, Ra-glai.
- Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán dìu.
- Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống, Hà nhì, La hủ, Lô lô, Phù lá, Si la.

Danh sách các dân tộc Việt Nam
Cụ thể danh sách các dân tộc Việt Nam gồm có:
STT | Dân tộc | Số dân | STT | Dân tộc | Số dân | STT | Dân tộc | Số dân |
1 | Kinh | 73.594.427 | 19 | Ra-giai | 122.245 | 37 | Kháng | 13.840 |
2 | Tày | 1.626.392 | 20 | Mnông | 102.741 | 38 | Phù Lá | 10.944 |
3 | Thái | 1.550.423 | 21 | Thổ | 74.458 | 39 | La Hủ | 9.651 |
4 | Mường | 1.268.963 | 22 | Xtiêng | 85.436 | 40 | La Ha | 8.177 |
5 | Khơ-me | 1.260.640 | 23 | Khơ-mú | 72.929 | 41 | Pà Thẻn | 6.811 |
6 | Hoa | 823.071 | 24 | Bru-Vân Kiều | 74.506 | 42 | Lự | 5.601 |
7 | Nùng | 968.800 | 25 | Cơ-tu | 61.588 | 43 | Ngái | 1.035 |
8 | Mông | 1.068.189 | 26 | Giáy | 58.617 | 44 | Chứt | 6.022 |
9 | Dao | 751.067 | 27 | Tà-ôi | 43.886 | 45 | Lô Tô | 4.541 |
10 | Gia-rai | 411.275 | 28 | Mạ | 41.405 | 46 | Mảng | 3.700 |
11 | Ê-đê | 331.194 | 29 | Giẻ-Triêng | 50.962 | 47 | Cơ Lao | 2.636 |
12 | Ba-na | 227.716 | 30 | Co | 33.817 | 48 | Bố Y | 2.273 |
13 | Sán Chay | 169.410 | 31 | Chơ-ro | 26.855 | 49 | Cống | 2.029 |
14 | Chăm | 161.729 | 32 | Xinh-mun | 23.278 | 50 | Si La | 687 |
15 | Cơ-ho | 166.112 | 33 | Hà Nhì | 21.725 | 51 | Pu Péo | |
16 | Xơ-đăng | 169.501 | 34 | Chu-ru | 19.314 | 52 | Rơ-măm | 436 |
17 | Sán Dìu | 146.821 | 35 | Lào | 14.928 | 53 | Brâu | 397 |
18 | Hrê | 127.420 | 36 | La Chí | 13.158 | 54 | Ơ-đu | 376 |
(Theo Tổng điều tra dân số 2009)
Lịch sử, tên gọi khác của các dân tộc Việt Nam
Ba Na: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông…
Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn – Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hóa độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.
Chăm: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời…
Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hóa rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa ấn Độ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Đốc,Tây Ninh, An Giang, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.
Co: Cor, Col
Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như: Hrê, Xơ Đăng, Ba Na… Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.
Cống: Xắm khống, Phuy A
Người Cống có nguồn gốc di cư trực tiếp từ Lào sang.
Giáy: Nhắng, Giẳng
Người Giáy từ Trung quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.
Hrê: Chăm Rê, Chom, Thượng Ba Tơ, Mọi Lũy, Mọi Sơn Phòng, Mọi Đá Vách, Chăm Quảng Ngãi, Mọi Chòm, Rê, Màn Thạch Bích.
Người Hrê thuộc số cư dân sinh tụ rất lâu đời ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên.
La Chí: Tên tự gọi: Cù tê; tên gọi khác: Thổ Đen, Mán, Xá.
Người La Chí có lịch sử cư trú lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai.
Lô Lô: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn
Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.
Mnông:
Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.
Nùng: Tên tự gọi: Nồng
Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm.
Pu Péo: Tên tự gọi: Kabeo; Tên gọi khác: La Quả, Penti Lô Lô.
Họ đã từng sinh sống lâu đời ở miền cực bắc Việt Nam. Các dân tộc láng giềng đều thừa nhận người Pu Péo là một trong những cư dân khai khẩn ruộng nương đầu tiên ở vùng cực bắc.
Thái: Tên tự gọi: Tay hoặc Thay; Tên gọi khác: Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ
Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.

Xơ Đăng: Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Đrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu; tên gọi khác: Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.
Người Xơ Đăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn – Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Bố Y: Chủng Chá, Trọng Gia…
Người Bố Y di cư từ Trung Quốc sang cách đây khoảng 150 năm.
Chơ Ro: Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.
Họ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Đông Dương.
Cơ Ho:
Người Cơ Ho có lịch sử cư trú lâu đời ở Tây Nguyên.
Dao: Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng); tên gọi khác: Mán.
Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
Gié-Triêng: Cà Tang, Giang Rẫy.
Người Gié-Triêng là cư dân gắn bó rất lâu đời ở vùng quanh quần sơn Ngọc Linh.
Kháng: Tên tự gọi: Mơ Kháng; tên gọi khác: Háng, Brển, Xá.
Người Kháng là một trong số các dân tộc cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc nước ta.
La Ha: Tên tự gọi: La Ha, Klá, Phlạo, tên gọi khác: Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, Pụa.
Người La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Theo những tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Đen di chuyển tới vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ “trâu trắng” để tế thần im Poi – một thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
Lự: Tên tự gọi: Lừ, Thay hoặc Thay Lừ; tên gọi khác: Phù Lừ, Nhuồn, Duồn.
Người Lự đã có mặt ở khu vực Xam Mứn (Điện Biên) ít nhất cũng trước thế kỷ XI – XII. Tại đây họ đã xây thành Xam Mứn (Tam Vạn) và khai khẩn nhiều ruộng đồng. Vào thế kỷ chiến tranh người Lự phải phân tán đi khắp nơi, một bộ phận nhỏ chạy lên sinh sống ở vùng núi Phong Thổ, Sìn Hồ.
Sán Dìu: Tên tự gọi: San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân); Tên gọi khác: Trại, Trại Đất, Mán Quần cộc, Mán Váy xẻ…
Người Sán Dìu di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay.

Ơ Đu: Tày Hạt
Xưa kia người Ơ Đu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn. Nhưng tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này buộc họ phải rời đi nơi khác hay sống hòa lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Đu ở hai bản đông nhất là Xốp Pột và Kim Hòa, xã Kim Đa huyện Tương Dương, Nghệ An. Ở Lào họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa.
Ra giai:
Người Ra Giai đã sinh sống lâu đời ở vùng miền Nam Trung bộ.
Si La: Tên tự gọi: Cù Dề Sừ; tên gọi khác: Kha Pẻ.
Người Si La có nguồn gốc di cư từ Lào sang.
Thổ: Người Nhà làng, Mường, Con Kha, Xá Lá Vàng
Địa bàn cư trú hiện nay của người Thổ vốn là giao điểm của các luồng di cư xuôi ngược. Do những biến động lịch sử ở những thế kỷ trước, những nhóm người Mường từ miền Tây Thanh Hóa dịch chuyển vào phía Nam gặp gỡ người Việt từ các huyện ven biển Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương ngược lên hòa nhập với cư dân địa phương có thể là gốc Việt cổ ở đây. Những người tha hương cùng chung cảnh ngộ ấy ngày một hòa nhập vào nhau thành một cộng đồng chung dân tộc Thổ.
XTiêng: Xa Điêng hay Xa Chiêng.
Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.
Brâu: Brao
Người Brâu chuyển cư vào Việt Nam cách đây khoảng 100 năm. Vùng Nam Lào và Đông Bắc Campuchia là nơi sinh tụ của người Brâu. Hiện nay, đại bộ phận cộng đồng này vẫn quần cư trên lưu vực các dòng sông Xê Xan (Xê Ca Máng) và Nậm Khoong (Mê Kông). Người Brâu có truyền thuyết Un cha đắc lếp(lửa bốc nước dâng) nói về nạn hồng thủy.
Chu ru: Chơ Ru, Kru, Thượng
Có lẽ xa xưa, tổ tiên người Chu Ru là một bộ phận trong khối cộng đồng Chăm; về sau, họ chuyển lên miền núi sống biệt lập với cộng đồng gốc nên thành người Chu Ru.
Cờ Lao: Tứ Đư, Ho Ki, Voa Đề
Người Cờ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 – 200 năm.
Ê-Đê: Anăk Ea Đê, Ra Đê (hay Rhađê), ê Đê, êgar, Đê
Người ê Đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng ê Đê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.
Mông: Tên tự gọi: Mông, Na Mỉeo, tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.
Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Đỏ, Mông Đen, Mông Xanh, Na Mỉeo.

Hà Nhì: U Ní, Xá U Ní
Cư dân Hà Nhì đã từng sinh sống lâu đời ở nam Trung Quốc và Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 8, thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của họ ở Tây bắc Việt Nam. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.
Khmer: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm
Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hóa của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
La Hủ: Xá lá vàng, Cò Xung, Khù Sung, Kha Quy, Cọ Sọ, Nê Thú
Người La Hủ chủ yếu làm nương du canh với nhịp độ luân chuyển cao. Gần đây họ chuyển dần sang trồng lúa trên ruộng bậc thang. Người La Hủ nổi tiếng về nghề đan lát (mâm cơm, ghế mây), rèn.
Mạ: Châu Mạ, Chô Mạ, Chê Mạ
Người Mạ là cư dân sinh tụ lâu đời ở Tây Nguyên.
Mường: Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).
Nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.
Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ..
Pà Thẻm: Tên tự gọi: Pà Hưng; tên gọi khác: Mèo Lài, Mèo Hoa, Mèo Đỏ, Bát tiên tộc…
Theo truyền thuyết, người Pà Thẻn ở vùng Than Lô (Trung Quốc) đến Việt Nam cách đây khoảng 200-300 năm với câu chuyện vượt biển cùng người Dao.
Rơ măm:
Những người già làng cho biết họ là cư dân đã sinh sống ở khu vực này từ xa xưa. Đầu thế kỷ XX dân số của tộc này còn khá đông, phân bố trong 12 làng, ở lẫn với người Gia Lai. Hiện họ chỉ sống tập trung trong một làng.
Tà ôi: Tà Ôi, Pa Cô, Tà Uốt, KanTua, Pa Hy…
Người Tà Ôi thuộc lớp dân cư tụ lâu đời ở Trường Sơn.
Việt: Kinh
Tổ tiên người Việt từ rất xa xưa đã định cư chắc chắn ở Bắc bộ và bắc Trung bộ. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Việt luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bru, Vân Kiều:
Họ thuộc số dân cư được coi là có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.
Chứt: Rục, Arem, Sách
Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khóa nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hóa và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.
Cơ Tu: Ca Tu, Ka Tu.
Người Cơ Tu cư trú lâu đời ở miền núi tây bắc tỉnh Quảng Nam, tây nam tỉnh Thừa Thiên Huế, liền khoảnh với địa bàn phân bố tộc Cơ Tu bên Lào. Họ thuộc số cư dân cư trú lâu đời ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên.
Gia Rai: Giơ Ray, Chơ Ray.
Dân tộc Gia Rai là một trong những cư dân sớm sinh tụ ở vùng núi Tây Nguyên, lan sang một phần đất Campuchia. Trong xã hội Gia Rai xưa đã có Pơ tao ia (vua nước) và Pơ tao pui (vua lửa) chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió hòa… Trước thế kỷ XI người Ê Đê, Gia Rai được gọi chung một tên là Rang Đêy. Vào thế kỷ XV-XVI sử sách phong kiến Việt Nam ghi nhận danh hiệu Thủy Xá (vua nước), Hỏa Xá (vua lửa). Chỉ có người đàn ông họ Siu mới được làm vua lửa, vua nước và con gái họ Rơ chom mới được quyền làm vợ hai vua. Có lẽ chữ Pơ tao đồng nghĩa với Mtao của người Chăm, Tạo của người Thái và Thao của Lào, đều chỉ người thủ lĩnh.

Hoa: Khách, Hán, Tàu
Người Hoa di cư đến Việt Nam vào những thời điểm khác nhau từ thế kỷ XVI, và sau này vào cuối thời Minh, đầu thời Thanh, kéo dài cho đến nửa đầu thế kỷ XX.
Khơ mú: Kmụ, Kưm Mụ
Khơ Mú là một trong những cư dân đã cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ phận Khơ Mú cư trú tại miền núi các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An do chuyển cư từ Lào sang.
Lào: Thay, Thay Duồn, Thay Nhuồn
Người Lào có nguồn gốc di cư từ Lào sang
Mảng: Mảng Ư, Xá Mảng, Niểng O, Xá Bá O.
Xưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu vẫn được gọi là “quê hương” của người Mảng. Nhiều truyền thuyết, truyện kể còn lưu truyền cho đến ngày nay giúp chúng ta có thể nhận ra người Mảng là một trong những dân cư bản địa ở vùng Tây Bắc.
Ngái: Tên tự gọi: Sán Ngải; tên gọi khác: Ngái Hắc Cá, Ngái Lầu Mần, Hẹ, Sín, Đản, Lê, Xuyến.
Người Ngái có nhiều gốc khác nhau và thiên di tới Việt Nam làm nhiều đợt. Quá trình này diễn ra suốt thời kỳ Trung và Cận đại.
Phù Lá: Tên tự gọi: Lao Va Xơ, Bồ Khô Pạ, Phù Lá; tên gọi khác: Xá Phó, Cần Thin.
Nhóm Phù Lá Lão – Bồ Khô Pạ là cư dân có mặt tương đối sớm ở Tây Bắc nước ta.
Các nhóm khác đến muộn hơn, khoảng 200-300 năm trở lại, quá trình hội nhập của nhóm Phù Lá Hán còn tiếp diễn cho tới những năm 40 của thế kỷ XX.
Sán Chay: Hờn Bán, Chùng, Trại…
Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm.
Tày: Thổ
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
Xinh Mun: Puộc, Xá, Pnạ
Người Xinh Mun đã từng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam.
Phân bố dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam
STT | Dân tộc | Địa bàn sinh sống |
1 | Kinh | Trên cả nước. |
2 | Tày | Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Yên Bái, Thái Nguyên, Lào Cai, Đắk Lắk, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hòa Bình, Lâm Đồng… |
3 | Thái | Sơn La, Nghệ An, Thanh Hoá, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Hòa Bình, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng… |
4 | Hoa | Tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bắc Giang, Cần Thơ, Lâm Đồng, Bình Dương, An Giang, Bình Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu… |
5 | Khmer | Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Bình Phước, Tây Ninh, Tp Hồ Chí Minh… |
6 | Mường | Hoà Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ, Sơn La, Hà Nội (Hà Tây), Ninh Bình, Yên Bái, Đắk Lắk, Đồng Nai, Gia Lai… |
7 | Nùng | Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Giang, Hà Giang, Thái Nguyên, Đắk Lắk, Bắc Kạn, Lào Cai, Lâm Đồng, Đắk Nông, Bình Phước, Đồng Nai, Yên Bái… |
8 | Mông | Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Nghệ An, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Đắk Lắk… |
9 | Dao | Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, Đắk Lắk, Đắk Nông… |
10 | Gia Rai | Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Bình Thuận… |
11 | Ngái | An Giang, Thái Nguyên, Thái Bình, Tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Trà Vinh, Đồng Tháp, Bình Thuận, Hà Nam… |
12 | Ê Đê | Đắk Lắk, Phú Yên, Đắk Nông, Khánh Hòa… |
13 | Ba Na | Gia Lai, Kon Tum, Bình Định, Phú Yên, Đắk Lắk… |
14 | Xơ Đăng | Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đắk Lắk, Gia Lai… |
15 | Sán Chay | Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh, Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Đắk Lắk, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Kạn,… |
16 | Cơ Ho | Lâm Đồng, Bình Thuận, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đồng Nai… |
17 | Chăm | Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, An Giang, Tp Hồ Chí Minh, Bình Định, Tây Ninh… |
18 | Sán Dìu | Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hải Dương, Đồng Nai, Đắk Lắk … |
19 | Hrê | Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum, Đắk Lắk, Gia Lai… |
20 | Mnông | Đắk Lắk, Đắk Nông, Quảng Nam, Lâm Đồng, Bình Phước… |
21 | Ra giay | Ninh Thuận, Khánh Hòa, Bình Thuận, Lâm Đồng… |
22 | Xtiêng | Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Lâm đồng… |
23 | Bru Vân Kiều | Quảng Trị, Quảng Bình, Đắk Lắk, Thừa Thiên-Huế… |
24 | Thổ | Nghệ An, Thanh Hóa, Lâm Đồng, Đồng Nai, Điện Biên, Đắk Lắk, Phú Thọ, Sơn La… |
25 | Giáy | Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Yên Bái… |
26 | Cơ Tu | Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng… |
27 | Gié Triêng | Kon Tum, Quảng Nam… |
28 | Mạ | Lâm Đồng, Đắk Nông, Đồng Nai, Bình Phước… |
29 | Khơ mú | Nghệ An, Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Thanh Hóa… |
30 | Co | Quảng Ngãi, Quảng Nam… |
31 | Tà Ôi | Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị… |
32 | Chơ Ro | Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Thuận… |
33 | Kháng | Sơn La, Điện Biên, Lai Châu… |
34 | Xinh Mun | Sơn La, Điện Biên… |
35 | Hà Nhì | Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai… |
36 | Chu Ru | Lâm Đồng, Ninh Thuận… |
37 | Pà Thẻn | Hà Giang, Tuyên Quang… |
38 | Lào | Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Đắk Lắk… |
39 | La Chí | Hà Giang, Lào Cai… |
40 | La Ha | Sơn La, Lai Châu… |
41 | Phù Lá | Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Điện Biên… |
42 | La Hủ | Lai Châu… |
43 | Lự | Lai Châu, Lâm Đồng… |
44 | Lô Lô | Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu… |
45 | Chứt | Quảng Bình, Hà Tĩnh, Đắk Lắk… |
46 | Cơ Lao | Hà Giang, Tuyên Quang… |
47 | Cống | Lai Châu, Điện Biên… |
48 | Bố Y | Lào Cai… |
49 | Si La | Lai Châu, Điện Biên… |
50 | Pu Péo | Hà Giang, Trà Vinh… |
51 | Brâu | Kon Tum… |
52 | Ơ Đu | Nghệ An. |
53 | Rơ Măm | Kon Tum… |
54 | Mảng | Lai Châu, Điện Biên… |
Chính sách của nhà nước Việt Nam đối với dân tộc thiểu số
Nhận thấy anh em dân tộc thiểu số còn khó khăn nhiều về cuộc sống nên Chính phủ liên tục có những chính sách hỗ trợ, phát triển cộng đồng dân tộc thiểu số. Gần đây, Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới cũng đề cập đến các dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa. Mục tiêu tổng thể của các chính sách này là thúc đẩy giảm nghèo bền vững và thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm dân tộc và các vùng khác nhau của đất nước trong khi bảo vệ và giữ gìn văn hóa và phong tục dân tộc.
Chính sách hỗ trợ dân tộc thiểu số gồm:
- Sinh kế và giảm nghèo: chuyển các cộng đồng từ lối sống du canh du cư truyền thống sang định canh định cư, giao đất lâm nghiệp, tín dụng và trợ cấp.
- Phát triển nguồn nhân lực: miễn học phí, phát triển y tế dự phòng và cải thiện dinh dưỡng, thúc đẩy bình đẳng giới, khuyến khích lãnh đạo là người dân tộc trong cộng đồng và tại chính quyền các cấp
- Phát triển văn hóa: xây dựng nhà văn hóa thôn, thương mại hóa sản phẩm truyền thống, xem xét lại tài sản văn hóa.
- Phát triển cơ sở hạ tầng: xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu bao gồm trường học, trạm y tế, đường xá, cầu cống, lưới điện, công trình thủy lợi, chợ bán buôn và bán lẻ, hệ thống thông tin liên lạc.
- Ứng dụng khoa học và công nghệ: ứng dụng công nghệ khoa học, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông, nâng cao năng lực (học trực tuyến, thư viện điện tử, v.v.).
Cuối cùng chúng ta cũng thống kê được Việt Nam có bao nhiêu dân tộc anh em, chúng ta có 54 dân tộc anh em tất cả. Công tác quản lý các dân tộc trên cả nước gặp nhiều khó khăn nhưng nhà nước ta vẫn luôn cố gắng từng ngày. Dân tộc Việt Nam tuy khác nhau về văn hóa, ngôn ngữ, điều kiện kinh tế song chúng ta luôn yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Chúng ta là cộng đồng, là anh em trong một bọc trứng.