PhD là gì? Đó chính là tấm bằng học vị cao nhất mà ai cũng ước được có nó. Nó là kết quả của quá trình học tập, ứng dụng, nghiên cứu, công sức, thời gian và tiền bạc để có được thành tựu đó. Và đương nhiên giá trị của nó là sự săn đón của thị trường hiện nay, việc bạn có được nó là bạn nắm trong tay cơ hội hơn hẳn nhiều lần người khác.
Ngoài PhD chúng ta còn nghe MD, MA, MSC, BA, BSc vậy chúng là gì? Viết tắt của từ nào? Ý nghĩa của tấm bằng PhD và để học lên PhD cần điều kiện ra sao?
Bài viết dưới đây của La Factoria Web sẽ giúp bạn hiểu tất cả về PHD là gì và những học vị thông dụng MD, MA, MSC, BA,… hiện nay bạn nhé.

Khái niệm PhD là gì?
PhD còn được viết là Ph. D hay Dphil là từ viết tắt của Doctor of philosophy trong tiếng Anh, có nghĩa là Tiến sĩ hay chuyên gia triết học.
Tiến sĩ là học vị cao nhất trong các bậc học nó xuất hiện đầu tiên ở Đức, sau này được Mỹ và các nước phương Tây khác sử dụng. Trong thời gian gần đây PhD được dùng chung để nói về những người có học vị Tiến sĩ trong mọi ngành nghề.
Bằng tiến sĩ tại Việt Nam là học vị cao quý và rất khó để đạt được loại học vị này.
PhD là bằng cấp sau đại học được công nhận trên toàn cầu do các trường đại học và các tổ chức giáo dục đại học trao cho sinh viên hoàn thành luận án dựa trên nghiên cứu sâu rộng và nguyên bản trong lĩnh vực cá nhân chọn.
Bằng PhD thường theo bằng thạc sĩ, tuy nhiên một số tổ chức cũng cho phép sinh viên tiến thẳng lên tiến sĩ từ bằng cử nhân.
Theo nguyên tắc, thời gian học từ ba đến bốn năm học toàn thời gian, trong đó sinh viên hoàn thành một phần đáng kể của nghiên cứu ban đầu được trình bày như một luận án hoặc nguyên cứu khoa học. Một số chương trình tiến sĩ chấp nhận một danh mục các bài báo được xuất bản.
Lợi ích, vai trò của bằng tiến sĩ PhD

Chúng ta đều có cơ hội sau quá trình học đại học nếu có điều kiện có thể chọn đi du học nước ngoài để lấy được tấm bằng cao hơn như thạc sĩ, tiến sĩ,… để mở mang kiến thức và tiếp cận được với nền văn minh của những nước phát triển trên thế giới.
Một tấm bằng PhD được các nhà tuyển dụng, xã hội đánh giá rất cao, tất nhiên khi đó lương bổng và vị trí công việc của người có bằng PhD sẽ cao hơn so với những người có trình độ đại học hay thạc sĩ vì nó là tấm bằng học vị cao thể hiện năng lực của người đó ở tầm nào.
Và với những người đi làm trong các lĩnh vực, ngành nghề cần nâng cấp kiến thức, trình độ như giảng viên của các trường đại học, giáo sư, phó giáo sư,… hay đối với những người làm nghiên cứu khoa học, những người được cân nhắc vào các vị trí lãnh đạo cao cấp trong các cơ quan nhà nước hiện nay thì tầm bằng PhD là mong muốn của nhiều người.
Lịch sử hình thành của doctor of philosophy?

PhD là viết tắt của chữ Doctor of Philosophy học bậc cao nhất trong các học bậc, xuất hiện đầu tiên ở Ðức, sau đó được Mỹ và nhiều nước phương tây khác sử dụng.
Ở Mỹ tấm bằng Ph xuất hiện khoảng cuối thế kỷ 19.
Philosophiae Doctor là tiếng Latinh. Chữ doctor nghĩa là “thầy” (tương đương teacher), và “chuyên gia”, “chức trách” (authority). Philosophy (triết học) có nguồn gốc từ thời trung cổ (medieval) ở Châu Ảu, khi các trường Đại học có bốn chuyên khoa (faculty) chính là: thần học (theology), luật học (law), y học (medicine), và triết học (philosophy).
Philosophy ở đây dùng để chỉ các ngành học không chỉ hay dẫn đến một nghề nghiệp thực tế nhất định của thời đó cụ thể như người của nhà thờ, luật sư và bác sĩ.
Và cho đến nay PhD không phải lúc nào cũng liên quan đến philosophy những chữ doctor vẫn mang đầy đủ ý nghĩa của nó.
Ở phương Tây, trong giao tiếp người ta gọi một người có bằng PhD là doctor. Và đa số các trường đại học đều đòi hỏi toàn bộ giảng viên và các giáo sư hay các nhà nghiên cứu ở các phòng nghiên cứu chuyên nghiệp đều có bằng PhD.
Nhưng không phải tất cả các PhD đều có thể làm giảng viên, giáo sư, hay nghiên cứu viên. Có một số PhD chẳng bằng một kỹ sư thông thường và cũng có khá nhiều PhD, sau khi “hành nghề” một thời gian thì lên chức, hoặc chuyển sang làm salesman hoặc làm quản lý,…
Trong các trường Đại học Châu Âu thời trung cổ, các ngành học được chia thành 4 khoa: thần học, luật, y học và triết học. Lúc đầu các danh hiệu thạc sĩ và bác sĩ được sử dụng để thay thế cho các cấp độ học vị cao nhất.
Hệ thống bằng cấp đại học ngày nay được bắt nguồn và mô phỏng từ hệ thống văn bằng của hai trường đại học lâu đời ở Âu châu vào thế kỷ 12 là Trường Đại học Paris ở Pháp và Trường Đại học Bologna ở Ý.
Theo Keith Allan Noble, bằng tiến sĩ đầu tiên được trao ở Paris thời trung cổ vào khoảng năm 1150. Ở thời Trung cổ, mỗi ngành nghề sẽ thành lập một hiệp hội gọi là Collegium, hiệp hội này bầu ra những người có danh hiệu là Magistrates, những người được nhận vào phụ giảng được gọi là Bakalari.
Cuối thế kỉ 12, Trường Đại học Paris thay đổi học vị Bakalari thành Baccalaureate. Đây là học vị duy nhất được cấp cho những thí sinh đã học xong một chương trình giáo khoa 4 năm về ngữ pháp, tu từ học, logic và đỗ khoa thi do các Magistrates đặt ra.
Sau đó là họ có thể theo học tiếp chương trình Master hay Doctor trong khoảng 8 năm học và được kết nạp vào tổ chức được gọi là Universitas of Doctors sau khi đạt tiêu chuẩn xét duyệt. Vào thời gian này, những danh xưng như Master, Doctor và Professor có cùng nghĩa và tương đương về giai cấp, tất cả họ đều làm nghề dạy học.
Vào thế kỉ 13, những người dạy học tại Trường Đại học Bologna, trung tâm huấn luyện luật pháp ở Âu châu được gọi là Doctor. Còn ở Trường Đại học Paris, là trung tâm về văn học nghệ thuật, những người dạy học được gọi là Master. Ở Anh và Mỹ, văn bằng Doctor sau này được đánh giá cao hơn văn bằng Master. Hai trường đại học Oxford và Cambridge ở Anh được mô phỏng theo hệ thống tổ chức của Trường Đại học Paris, nơi các nhà khoa bảng các môn văn hóa nghệ thuật thường được gọi là “Master”, trong khi các đồng nghiệp của họ được gọi là “Doctor”trong các môn học như triết, thần học, y học, và luật. T
ên các bằng cấp như “Master of Arts” và “Doctor of Philosophy” hiện nay có nguồn gốc từ sự phân chia này.
Trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỉ 20, bằng Tiến sĩ được sử dụng rộng rãi khắp Châu Âu. Ở Pháp, bằng Tiến sĩ được sử dụng là bằng cấp cao nhất là năm 1808, tại Nga là năm 1819. Ở Anh bằng tiến sĩ đầu tiên theo nghĩa hiện đại là DSc của Đại học Durham, được giới thiệu vào năm 1882 và nhanh chóng được các trường Đại học khác áp dụng theo.
Tại Việt Nam, giai đoạn phong kiến học vị tiến sĩ được trao cho người đỗ tất cả ba kì thi: Thi Hương, thi Hội, thi Đình.
Đến thế kỷ 20, học vị Tiến sĩ của Việt Nam bắt đầu áp dụng chính thức theo hệ thống giáo dục hiện đại của châu Âu. Từ 1975 – 1998 chịu ảnh hưởng của hệ thống giáo dục của Liên Xô, Việt Nam tồn tại 2 bậc học vị là Phó tiến sĩ và Tiến sĩ. Đến năm 1998 chức danh Phó tiến sĩ được đổi thành tiến sĩ.
Trong hệ thống giáo dục ở Úc tấm bằng PhD không phải là sự kết thúc, mà lại chính là sự khởi đầu của một nghề mang tính chất chuyên nghiệp, đó là nghề nghiên cứu. Khác hoàn toàn với học đại học, hay học cao học, PhD được biết đến như một “hành trình tự thân” nơi một mình cá nhân theo đuổi một hành trình của riêng mình trong 3 – 4 năm.
Phd chúng ta cần tự vạch ra con đường mình sẽ đi, tự xây dựng kế hoạch để có thể đi hết con đường đó. Và tùy ngành học và chủ đề nghiên cứu, có thể khi kết thúc hành trình sẽ tới một cái đích mà người khác đã từng tới hoặc đã biết đến, nhưng buộc phải tới đó trên một con đường chưa ai đi.
PhD là sự mài giũa đầu óc với mức độ mà không au sẽ không tưởng tượng được cho tới khi đặt chân vào hành trình ấy. Phd đòi hỏi tư duy phải độc lập và sáng tạo tới mức cao nhất có thể.
Phd thử thách độ bền của tâm lý với muôn vàn cung bậc cảm xúc và trạng thái tình cảm, trong đó không thiếu những lúc cảm thấy tuyệt vọng. Nhưng nếu bước qua bạn sẽ nhận lại phần giá trị xứng đáng.
Nguồn gốc của từ phd
Mặc dù PhD có nguồn gốc từ Hy Lạp nhưng nó không thực sự là một văn bằng Hy Lạp cổ đại. Mà nó là một sự phát triển gần đây, học vị Tiến sĩ đã được phát triển ở Đức vào thế kỷ 19 cùng với các trường đại học nghiên cứu hiện đại.
Nếu trước kia chỉ có bằng thạc sĩ – Masters degree, nhưng vì muốn kích thích và mở đường cho các sinh viên có đam mê nguyên cứu trong lĩnh vực mình đang tìm hiểu. PhD đã ra đời và hiện tại là loại bằng cấp cao nhất trên thế giới.
Ðể hoàn tất PhD, sinh viên phải đạt được hai mục tiêu chính:
+ Hoàn toàn tinh thông một ngành hoặc phân ngành nào đó,
+ Góp phần mở rộng khối kiến thức của nhân loại về ngành đó
Trong đó mục tiêu góp phần mở rộng kiến thức của nhân loại là cái cốt lõi để phân biệt bậc PhD với các bậc học khác.
Một PhD đúng nghĩa là phải có một vài công trình và ý tưởng nghiên cứu của riêng mình (originality) phục vụ áp dụng vào đời sống ngành nghề của mình chứ PhD không phải là cái bằng cứ đọc nhiều, rồi thi lấy điểm cao là xong.
Những kiến thức trong chương trình PhD

Để hoàn thành đạt được bằng PhD phải trải qua các giai đoạn sau:
– Thực hiện tìm hiểu và đánh giá tài liệu
– Tiến hành nghiên cứu ban đầu và thu thập kết quả của cá nhân
– Viết một luận án trình bày kết luận của cá nhân
– Bảo vệ luận án của mình trong một kỳ trước hội đồng gồm nhiều giáo sư hay các nhà khoa học có chuyên ngành mà mình đang làm đồ án
– Để đạt được bằng PhD thật sự phải mất rất nhiều thời gian và trí óc, nhưng nếu thành công thì được rất nhiều người tôn trọng và quan trọng hơn là những kiến thức nghiên cứu sẽ giúp ích cho cộng đồng, khoa học và sự phát triển của thế giới.
Những yêu cầu cần có để sở hữu bằng PhD

Trên Thế giới, để nhận được văn bằng Tiến sĩ, ứng viên cần phải có bằng Thạc sĩ trong ngành học có liên quan đến bằng Tiến sĩ của cá nhân, nhưng tại Mỹ nhiều chương trình của nước này lại cho phép sinh viên đăng ký Tiến sĩ ngay khi có bằng đại học.
Trước khi viết luận án Tiến sĩ, nghiên cứu sinh cần phải công bố vài bài báo khoa học trên các tập san khoa học quốc tế ví dụ như British Medical Journal – tập san y khoa. Thông qua những bài báo này, đồng nghiệp trên khắp thế giới có thể thẩm định chất lượng của công trình nghiên cứu và luận án của nghiên cứu sinh.
Tại các trường đại học ở châu Âu, Mỹ và Úc, công bố quốc tế là yêu cầu gần như tất yếu trong quá trình học Tiến sĩ. Các nghiên cứu sinh được khuyến khích hoặc gần như bắt buộc phải công bố vài bài báo khoa học trước khi viết luận án Tiến sĩ.
Ở một số nước khu vực Bắc Âu, luận án Tiến sĩ thực chất là tập hợp một số bài báo khoa học đã công bố trên các tập san quốc tế. Tùy thuộc vào quy định của trường đại học, của khoa chuyên ngành nghiên cứu sinh sẽ phải thực hiện bao nhiêu bài báo khoa học cần thiết để có thể bảo vệ luận án Tiến sĩ của mình.
Các nghiên cứu sinh phải hoàn thành luận án nghiên cứu khoa học, nếu không nghiên cứu khoa học thì không thể trở thành Tiến sĩ. Việc hoàn thành luận án khoa học là một phần quan trọng của chương trình học Tiến sĩ.
Để hoàn thành luận án nghiên cứu khoa học, thì ứng viên phải có kiến thức uyên bác, sâu rộng về một đề tài khoa học nào đó. Tiếp theo là mở rộng, đóng góp và phát triển thêm tri thức mới về đề tài đó. Những tri thức mới ở đây bao gồm việc phát hiện mới, khám phá mới, hay phương pháp mới cho một vấn đề cũ,…
Để mở rộng kiến thức trong một đề tài, các ứng viên phải nghiên cứu theo sự chỉ dẫn của thầy cô, đồng thời tự tìm hiểu kiến thức về đề tài đó thông qua các tập san khoa học. Một luận án Tiến sĩ sẽ có độ dài từ 70.000 từ đến 100.000 từ. Ở nhiều quốc gia, một nghiên cứu sinh phải bảo vệ luận án của mình trước một hội đồng giám khảo chuyên gia do trường đại học chỉ định. Ở các quốc gia khác, luận án được kiểm tra bởi một hội đồng giám khảo chuyên gia, người quy định liệu luận án có thể vượt qua được về chuyên môn hay không và vấn đề nào cần được giải quyết trước khi luận án có thể được thông qua.

Để hoàn thành chương trình đào tạo Tiến sĩ, tất cả nghiên cứu sinh phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản:
– Phải chứng tỏ mình có những kiến thức cơ bản về khoa học, kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực mà mình nghiên cứu
– Phải am hiểu các tài liệu nghiên cứu trong lĩnh vực chuyên môn, luôn cập nhật kiến thức mới, phát triển mới liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu
– Chứng tỏ được kỹ năng phát hiện vấn đề thông qua các câu hỏi có ý nghĩa cho nghiên cứu chuyên ngành
– Làm chủ được phương pháp nghiên cứu khoa học hay phương pháp thí nghiệm cơ bản
– Đạt được những kỹ năng về truyền đạt thông tin, kỹ năng trình bày kết quả nghiên cứu trong các diễn đàn khoa học quốc gia và quốc tế, khả năng viết báo cáo khoa học,…
Đa số các nghiên cứu sinh Tiến sĩ phải học toàn thời gian. Tuy nhiên nay với sự phổ biến của giáo dục từ xa và công nghệ học tập điện tử, một số trường đại học chấp nhận sinh viên đăng ký vào chế độ bán thời gian giáo dục từ xa, nhưng cách học này cần nhiều thời gian hơn so với học toàn thời gian.
Thời gian học bằng PhD là bao lâu?
Bạn có thể chọn học toàn thời gian hoặc học từ xa để học lên PhD, và nếu học toàn thời gian và tập trung vào học thì chúng ta sẽ mất khoảng 3 – 4 năm để hoàn thành còn nếu như chỉ học bán thời gian học từ xa thì thời gian để kết thúc khóa học sẽ là từ 7 – 8 năm.
Tất nhiên đăng ký học lên tiến sĩ thì sẽ phải ký cam kết là toàn tâm toàn ý cho những giờ học nghiên cứu học thuật.
Với tấm bằng PhD thì cá nhân sẽ có thể đăng ký theo hình thức được tài trợ hay tự bỏ tiền ra học. Hiện nay có những chương trình cấp học bổng do nhà trường tài trợ sau khi đã nhận được bảng đề xuất và lý do tại sao muốn nghiên cứu về lĩnh vực này.
Với những chương trình tiến sĩ tự túc với kinh phí do gia đình bỏ ra thì mức kinh phí ở các nước sẽ khác nhau.
Điều kiện để học lên bậc PhD như thế nào?

Không phải ai cũng có thể học lên bậc PhD vì bậc PhD đòi hỏi theo đó phải có bằng thạc sĩ trong ngành nghề học liên quan.
Chúng ta phải chứng minh được kiến thức của mình cũng như là những kiến thức mà bản thân muốn biết, muốn làm sáng tỏ, phương pháp học tập như thế nào,… tất cả đều phải có ở trong đề cương nghiên cứu,… và đây là điều kiện bắt buộc của một số trường đòi hỏi nếu như muốn học lên bậc PhD.
Một vài trường còn bố trí một người giám sát sau khi nhập học, đôi khi cũng có trường yêu cầu cá nhân phải tìm đến giáo sư và thuyết phục người này làm giám sát cho mình.
Tiếp đến, để có thể chắc chắn hồ sơ nhập học của chúng ta sẽ được thông qua thì cần phải đạt được các tiêu chí sau:
– Có kiến thức vững chắc về lý thuyết và khái niệm chuyên môn
– Có kiến thức nghiên cứu chuyên môn
– Có khả năng nghiên cứu độc lập
– Có khả năng kết nối kết quả để hình thành lên những luận điểm sâu rộng.
Một số chương trình học bổng Tiến sĩ nổi bật:
Thời gian, công sức và chi phí để học văn bằng Tiến sĩ là rất cao, nên có một cách “săn” học bổng lại là giải pháp tối ưu và được chọn nhiều hiện nay. Nhiều chương trình học bổng Tiến sĩ mà chúng ta có thể chọn lựa ở các nước khác nhau. Chúng ta có thể tham khảo một số chương trình học bổng Tiến sĩ nổi bật nhất:
– Học bổng FulBright của Mỹ
– Học bổng Monbukagakusho
– MEXT của Chính phủ Nhật Bản
– Học bổng nghiên cứu toàn phần cho bậc sau Đại học tại Đại học Sydney Úc
– Học bổng Tiến Sĩ toàn phần của Trường nghiên cứu quốc tế Max Planck – Đức
– Học bổng Tiến Sĩ Đại học Frankfurt – Đức.
– Học bổng Tiến Sĩ đơn vị nghiên cứu lâm sàng tại Đại học Oxford.
– Học bổng Tiến Sĩ Đại học Cambridge
– Học bổng Tiến sĩ toàn phần về Môi trường và Xã hội tại Đại học Quốc gia Úc
– Học bổng Erasmus Mundus của Liên minh Châu Âu (EU)
– Học bổng Tiến Sĩ Đại học Harvard
– Học bổng VEF của Chính phủ Hoa Kỳ
Phân biệt một số học vị MD, MA, MSc, BA, BSc thông dụng

Một số các từ viết tắt học vị trong tiếng Anh thông dụng bạn nên biết:
MD
– MD là từ viết tắt của cụm từ medical doctor/ physician là Bác sĩ y khoa. Đây là một học vị trong chuyên ngành y khoa rất phổ biến tại nhiều quốc gia. Những người học MD thường được học thực hành nhiều hơn là lý thuyết.
MA
MA là viết tắt của cụm từ Master of Arts là thạc sĩ văn chương/ xã hội, họ là người chuyên về lĩnh vực khoa học xã hội như truyền thông, giáo dục, ngôn ngữ, văn học, địa lý, lịch sử và âm nhạc.
MS hoặc MSc
MS hoặc MSc đây là từ viết tắt của cụm từ Master of Science là thạc sĩ khoa học tự nhiên.
Tâm bằng này được trao cho các cá nhân sau khi hoàn thành khóa học về khoa học tự nhiên như: sinh học, hoá học, kĩ thuật, y tế, thống kê.
BA
BA được viết tắt của từ Bachelor of Arts Cử là nhân văn chương/ xã hội họ là những người có nghiệp vụ chuyên môn về nhân văn, văn học, lịch sử, khoa học xã hội, truyền thông và ngoại ngữ.
Bên cạnh đó BA còn là từ viết tắt của Business Analyst, là chuyên viên phân tích nghiệp vụ, đây là người kết nối khách hàng với người làm kinh doanh, người làm kỹ thuật của doanh nghiệp.
BSC
BSc (hoặc BS) là viết tắt của Bachelor of Science là những cử nhân khoa học tự nhiên.
Bằng BS là tấm bằng liên quan đến những môn như kỹ thuật, công nghệ, toán học, khoa học máy tính, điều dưỡng và hóa sinh.
Tuy nhiên bằng BS cũng được nhiều trường cung cấp bằng BS ở một số lĩnh vực khác như âm nhạc.
MBA
MBA là viết tắt của The Master of business Administration là Thạc sĩ quản trị kinh doanh.
LLB, LL.B
LLB là viết tắt của The Bachelor of Laws là Cử nhân luật.
ME
M.Econ là viết tắt của The Master of Economics là Thạc sĩ kinh tế học.
DBA
DBA hoặc D.B.A là viết tắt của Doctor of Business Administration là Tiến sĩ quản trị kinh doanh.
Qua chia sẻ ở trên giờ thì bạn đã hiểu được học vị PhD là gì rồi, đó là tấm bằng Tiến sĩ cao quý và giá trị. Để đạt được tấm bằng PhD bạn phải tự lực và thực sự đam mê với nghiên cứu của mình, thật sự quá trình học và đạt được nó là quãng đường rất chông gai, khó khăn lắm lúc nản chí vì thời gian, tiền bạc, mệt mỏi nhưng bạn phải nhớ nếu kiên trì thành công cái giá trị mà bạn nhận lại là rất xứng đáng. Có được PhD là niềm hãnh diện và sự thán phục của mọi người. Nếu đang có đam mê nghiên cứu và muốn bước tiếp con đường học tập nghiên cứu của mình thì hãy mạnh dạn và nên thử tìm hiểu những loại học bổng chúng tôi chia sẻ ở trên để có thể giúp bạn tiến gần hơn đến đích.