Hình thức đầu tư PPP là gì? Bạn là dân kinh tế hay đang là doanh nghiệp quan tâm đến mô hình hợp tác đầu tư trong các dự án công này. Bạn đang muốn biết về mô hình PPP là gì? Các dự án PPP có những đặc điểm gì? Ý nghĩa các hợp đồng PPP là gì? Thực tế ở Việt Nam thực trạng đầu tư theo mô hình này ra sao? Và nhiều hơn những thắc mắc hơn về PPP bạn muốn biết.
Chúng tôi sẽ tổng hợp và chia sẻ những thông tin xoay quanh mô hình PPP đang được nhiều doanh nghiệp quan tâm hiện nay để bạn có cái nhìn cơ bản hơn.
Hình thức đầu tư PPP là gì?
PPP là viết tắt của Public – Private Partnership là mô hình đầu tư theo hình thức đối tác công tư nghĩa là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình hạ tầng, cung cấp dịch vụ công.
Trong mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ, còn tư nhân được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ, là hình thức hợp tác tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất lượng cao, mang lại lợi ích cho cả nhà nước và người dân.
Hình thức đầu tư PPP ra đời nhằm tối đa hóa hiệu quả các dự án công, đảm bảo chất lượng cao cho các công trình công cộng và tận dụng tối đa, không lãng phí ngân sách nhằm đem lại lợi ích cho nhà nước, doanh nghiệp tư nhân tham gia và công chúng sử dụng dịch vụ công.
Trong mô hình này, việc xác lập quan hệ đối tác là qua một hợp đồng ràng buộc về mặt pháp lý hoặc một số cơ chế khác, trong đó đồng ý chia sẻ các trách nhiệm liên quan đến việc thực hiện và quản lý của các dự án cơ sở hạ tầng. Quan hệ đối tác được xây dựng trên chuyên môn của từng đối tác đáp ứng nhu cầu được xác định rõ ràng thông qua việc phân bổ thích hợp về: tài nguyên, nguồn lực, rủi ro, trách nhiệm, chế độ khen thưởng.
Hiểu đơn giản mô hình PPP là thông qua các dự án mà nhà nước và nhà đầu tư tư nhân cùng phối hợp thực hiện bằng hình thức thảo luận và ký kết hợp đồng.
Dự án PPP là gì?
Các dự án PPP là các dự án xây dựng, vận hành, cải tạo, quản lý công trình hạ tầng cung cấp dịch vụ công. Đây là mô hình đang được áp dụng rất rộng rãi. Mối quan hệ hợp tác giữa nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong các dự án PPP là mối quan hệ kinh tế gắn bó chặt chẽ, mối quan hệ hợp tác công tư nhằm hoàn thiện 1 dự án đầu tư. Các nhà đầu tư có hứng thú với dự án sẽ tham gia đấu thầu, doanh nghiệp trúng thầu sẽ được nhà nước tiến hành chuyển giao quyền lợi, trách nghiệm theo các mức độ nhất định.
Hợp đồng PPP là gì?
Hợp đồng PPP là hợp đồng đầu tư giữa nhà nước và đơn vị doanh nghiệp tư nhân đấu thầu xin đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
Hợp đồng PPP được thảo luận, quyết định các điều khoản và đi đến ký kết giữa 2 bên là các nhà đầu tư tư nhân và cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Phần lớn các dự án PPP là đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp hay quản lý vận hành các công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công.
Đặc điểm của hợp đồng PPP
– Chủ thể hợp đồng: cơ quan nhà nước và doanh nghiệp tư nhân
– Hợp đồng có liên quan đến các công trình kết cấu hạ tầng và dịch vụ công
– Mỗi loại dự án PPP sẽ có một loại hợp đồng tương ứng phù hợp với đặc điểm cũng như yêu cầu cụ thể của mối loại hình được quy định theo quy định tại Nghị định 15/2015/NĐ-CP
Ý nghĩa của hợp đồng PPP
Hợp đồng PPP mang ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút vốn tư nhân vào xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình thiết yếu. Nhà nước thay vì phải bỏ vốn toàn bộ thông qua hợp đồng PPP Nhà nước đã thu hút vốn đầu tư tư nhân vào xây dựng.
Trong các hợp đồng PPP thường nhà nước sẽ áp dụng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cho nhà đầu tư để nhận lại hệ thống cơ sở hạ tầng bằng các phương thức chuyển giao quyền sở hữu từ nhà đầu tư.
Đặc điểm mô hình PPP là gì?
Các mô hình PPP – mô hình hợp tác công tư thường có các đặc điểm:
– Bên tư nhân hoặc cung cấp dịch vụ công cộng phải chịu mức độ rủi ro tài chính nhất định khi tiến hành dự án về các mặt kỹ thuật hay vận hành trong dự án.
– Các dịch vụ công tư trong các dự án PPP có chi phí do người sử dụng dịch vụ chi trả chứ không phải do người nộp thuế.
– Đóng góp của bên công ở đây là nhà nước trong các dự án hợp tác công tư có thể được thông qua bằng hiện vật, việc cần làm là chuyển nhượng các sản phẩm hiện có sang cho bên tư nhân phục vụ cho dự án.
– Trong các dự án PPP xây dựng cơ sở hạ tầng, chính phủ có thể cung cấp một khoản trợ cấp vốn dưới dạng trợ cấp một lần với mục đích làm cho dự án có hiệu quả về mặt kinh tế. Bên cạnh đó chính phủ còn có thể hỗ trợ bằng cách cung cấp các khoản trợ cấp doanh thu bao gồm giảm thuế hay giảm các khoản thu hàng năm được đảm bảo trong khoảng thời gian cố định.
– Mô hình PPP cho phép các khu vực công, khai thác chuyên môn và hiệu quả từ khu vực tư nhân nhằm đem đến cơ sở và dịch vụ tốt nhất, theo truyền thống được mua và cung cấp bởi khu vực công.
– Trong các dự án PPP, có thể để các cơ quan thuộc khu vực công, tìm cách đầu tư mà không phải chịu bất kỳ khoản vay nào, việc vay mượn phát sinh sẽ do các đơn vị tư nhân trong dự án thực hiện.
05 hình thức của đầu tư PPP
Hiện có 05 hình thức đầu tư PPP trên thế giới là:
– Xây dựng – Chuyển giao (BT: Build – Transfer): Trong mô hình này, chính quyền đứng ra ký hợp đồng với một đối tác tư nhân để thiết kế và xây dựng một công trình đáp ứng các yêu cầu. Sau khi công trình hoàn thành, chính quyền sẽ chịu trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng công trình đó.
– Xây dựng – Cho thuê – Chuyển giao (BLT: Build – Lease – Transfer ): Mô hình này bên chính quyền đứng ra ký hợp đồng với một đối tác tư nhân để thiết kế và xây dựng một công trình đáp ứng các yêu cầu nhưng sau khi hoàn thành, công trình được giao cho chính quyền thuê lại. Khi tiền thuê đã được thanh toán đủ công trình được chuyển giao cho phía chính quyền mà không yêu cầu thêm chi phí nào. Chính quyền có trách nhiệm vận hành trong thời gian thuê công trình.
– Xây dựng – Vận hành – Chuyển giao (BOT: Build – Operate – Transfer): Mô hình này là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để thiết kế và xây dựng 1 công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi hoàn thành nhà đầu tư vận hành và bảo dưỡng công trình trong một thời hạn nhất định. Đến khi hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước, Nhà nước chịu trách nhiệm tiếp tục vận hành công trình.
– Xây dựng – chuyển giao – vận hành (BTO: Build – Transfer – Operate): Mô hình đầu tư được ký kết giữa nhà đầu tư và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước tuy nhiên nhà đầu tư vẫn giữ quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
– Xây dựng – sở hữu – vận hành (BOO: Build – Own – Operate): Mô hình này, Nhà nước nhượng quyền cho một đơn vị tư nhân cấp tài chính, xây dựng, vận hành và bảo trì một dự án. Đơn vị này có quyền sở hữu dự án trong thời gian hoạt động của dự án.
Hợp đồng dự án PPP
Hợp đồng BOT
Hợp đồng BOT có tên gọi là Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao: hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định, đến khi hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hợp đồng BTO
Hợp đồng BTO với tên gọi là Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh: hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.
Hợp đồng BT
Hợp đồng BT với tên gọi là Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao: hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án (nếu có) để xây dựng công trình hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được thanh toán bằng quỹ đất, trụ sở làm việc, tài sản kết cấu hạ tầng hoặc quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ để thực hiện Dự án khác.
Hợp đồng BOO
Hợp đồng BOO hay được gọi là Hợp đồng Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh: hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án sở hữu và được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định. Khi hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Hợp đồng BTL
Hợp đồng BTL với tên gọi là Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Thuê dịch vụ: hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án.
Hợp đồng BLT
Hợp đồng BLT được gọi là Hợp đồng Xây dựng – Thuê dịch vụ – Chuyển giao: hợp đồng này được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng. Sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án khi hết thời hạn cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hợp đồng O&M
Hợp đồng O&M với tên gọi là Hợp đồng Kinh doanh – Quản lý là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để kinh doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn nhất định.
Ưu điểm của mô hình PPP
Trên thế giới các nước đã dần có khuynh hướng chuyển dần sang khu vực tư nhân cung cấp các dịch vụ về cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực năng lượng và điện, nước, thông tin liên lạc, giao thông vận tải. Và theo đó có nhiều lý do trong việc chuyển sang sự hợp tác với khu vực tư nhân trong phát triển và cung cấp các dịch vụ về cơ sở hạ tầng chúng ta có thể đề cập đến:
– Tăng cường hiệu quả trong việc phân phối, điều hành và quản lý dự án về hạ tầng.
– Có các nguồn lực bổ sung để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
– Có cơ hội tiếp cận và nắm bắt các công nghệ tiên tiến cả phần cứng và phần mềm
– Công tác quy hoạch và phát triển được triển khai đúng đắn, cho phép sàng lọc, lựa chọn tốt hơn các đối tác và hỗ trợ trong việc ra quyết định về cơ cấu của dự án, đưa ra lựa chọn thích hợp về công nghệ trên cơ sở xem xét chi phí trong toàn bộ vòng đời của dự án.
Đặc biệt mô hình PPP này trở nên hấp dẫn với chính phủ các nước đang phát triển, nó được đánh giá như là một cơ chế ngoài ngân sách phục vụ cho phát triển cơ sở hạ tầng. Nó mang những lợi ích như:
+ Giúp tăng cường cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng cần thiết.
+ Áp dụng mô hình PPP có thể không yêu cầu bất kỳ chi tiêu tiền mặt ngay lập tức, giúp làm giảm gánh nặng của chi phí thiết kế và xây dựng.
+ Cho phép chuyển nhượng nhiều rủi ro dự án sang khu vực tư nhân.
+ Mô hình PPP giúp đưa ra những lựa chọn tốt hơn về thiết kế, công nghệ, xây dựng, sự vận hành và chất lượng cung cấp dịch vụ hạ tầng.
Nhược điểm của PPP
PPP là một hình thức tạo ra cơ sở hạ tầng với chi phí do khu vực tư nhân chi trả. Có một số trường hợp dự án BOT đã xảy ra các vấn đề do vượt quá chi phí, giá thành không thực tế, dự báo thu nhập không chính xác và có những tranh chấp pháp lý giữa tư nhân, nhà khai thác và Chính phủ. (Theo Kumaraswamy và Zhang (2001))
Dự án PPP nhóm C là gì?
Theo quy định của Luật Đầu tư công 2014, tùy thuộc vào quy mô và phạm vi, các dự án đầu tư công được phân loại là dự án nhóm A, nhóm B, Nhóm C. Tiêu chí phân loại dự án nhóm C được quy định tại Điều 10 Luật Đầu tư công 2014 ta có:
Dự án sau có tổng mức đầu tư dưới 120 tỷ đồng
Dự án sau có tổng mức đầu tư dưới 120 tỷ đồng bao gồm:
– Giao thông, bao gồm cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ;
– Công nghiệp điện;
– Khai thác dầu khí;
– Hóa chất, phân bón, xi măng;
– Chế tạo máy, luyện kim;
– Khai thác, chế biến khoáng sản;
– Xây dựng khu nhà ở;
Dự án sau có tổng mức đầu tư dưới 80 tỷ đồng
Dự án sau có tổng mức đầu tư dưới 80 tỷ đồng gồm:
– Giao thông, trừ các dự án cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ;
– Thủy lợi;
– Cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật;
– Kỹ thuật điện;
– Sản xuất thiết bị thông tin, điện tử;
– Hóa dược;
– Sản xuất vật liệu, trừ các dự án về Hóa chất, phân bón, xi măng;
– Công trình cơ khí, trừ các dự án về Chế tạo máy, luyện kim;
– Bưu chính, viễn thông;
Dự án sau có tổng mức đầu tư dưới 60 tỷ đồng
Dự án sau có tổng mức đầu tư dưới 60 tỷ đồng:
– Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản;
– Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên;
– Hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới;
– Công nghiệp, trừ các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 8 Luật Đầu tư công 2014.
Dự án sau có tổng mức đầu tư dưới 45 tỷ đồng
Dự án sau có tổng mức đầu tư dưới 45 tỷ đồng:
– Y tế, văn hóa, giáo dục;
– Nghiên cứu khoa học, tin học, phát thanh, truyền hình;
– Kho tàng;
– Du lịch, thể dục thể thao;
– Xây dựng dân dụng, trừ xây dựng khu nhà ở quy định tại điểm g khoản 2 Điều 8 Luật Đầu tư công 2014
Thực trạng đầu tư PPP tại Việt Nam
Theo như chuyên gia PPP quốc tế thuộc Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cụ thể là ông Đoàn Giang nhìn nhận, tại Việt Nam đã thực hiện rất nhiều dự án PPP từ năm 1997 đến hiện tại có hơn 300 dự án PPP. Nhưng việc thực hiện các dự án PPP ở Việt Nam còn nhiều vấn đề cần quan tâm.
Thứ nhất là việc lựa chọn các nhà đầu tư chưa thông qua hình thức đấu thầu cạnh tranh, dù có các quy định pháp luật khuyến khích các bộ ngành, địa phương lựa chọn nhà đầu tư thông qua hình thức đấu thầu.
Tiếp theo là các dự án PPP khi đưa ra thị trường chưa được chuẩn bị và nghiên cứu kỹ. Chính điều này đã ngăn cản các nhà đầu tư nghiêm túc, nhà đầu tư có thể mang lại giá trị cao nhất cho người được thụ hưởng.
Tiếp nữa là chính sách pháp lý về PPP còn tản mạn, chưa đồng bộ, các luật chồng chéo lẫn nhau. Luật PPP hiện chỉ mới dừng ở mức Nghị định và bị ràng buộc ở nhiều văn bản khác nhau dẫn tới cản trở cả khu vực công và tư trong thực hiện dự án.
Các khuôn khổ chính sách ở VN hiện nay chưa tạo ra hành lang pháp lý, thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro giữa khu vực công và khu vực tư trong các dự án PPP. Đồng thời, khả năng dự báo rủi ro về thị trường, chính sách vẫn còn thấp,
Trên thực tế theo USAID quá trình thực hiện dự án PPP là một cam kết dài hạn, kéo dài 20 – 30 năm thậm chí lâu hơn nữa của chính phủ bởi vậy nó đòi hỏi Chính phủ phải đầu tư về công sức, chuyên môn, tài chính cũng như có kỹ năng, trình độ để quản lý nhà đầu tư trong suốt thời gian dài.
Các đề xuất của nhà đầu tư là phổ biến, đấu thầu cạnh tranh lại không nhiều. Hợp đồng BT và BOT phổ biến hơn BTO, BLT, BOO hay OM…
Nguồn lực quản lý dự án PPP yếu, mỏng, cán bộ thiếu năng lực, cộng đồng chuyên gia thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin về khung pháp lý.
Thuận lợi và khó khăn của các dự án PPP tại Việt Nam?
Việt Nam mô hình PPP chủ yếu là hai hình thức BOO và BOT nhưng nó vẫn còn quá khiêm tốn. Về việc thu hút hấp dẫn được các nhà đầu tư trong và ngoài nước, vấn đề pháp lý của nhà nước ta đóng vai trò rất đặc biệt. Để thúc đẩy sự phát triển của các dự án PPP chúng ta cần đưa ra biện pháp cải thiện nhằm mục đích có thể tận dụng thật tốt nguồn vốn đến từ các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các nhà đầu tư trong nước một cách hiệu quả và có lợi cho hai bên công và tư.
– Thuận lợi
Các dự án PPP rất thành công trong việc sử dụng được những kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả của khu vực tư nhân.
Việc làm việc với các đơn vị tư nhân buộc khu vực công cộng ngay từ đầu phải chú trọng đầu ra và lợi ích
Giúp giảm nhẹ gánh nặng về tài chính cho dự án do đưa vốn tư nhân vào. Khi đó, rủi ro được chia sẻ giữa những đối tác khác nhau, có sự chắc chắn hơn về ngân sách.
Bên cạnh đó, hợp tác công tư cũng khiến những nhà cung cấp tư nhân trở nên có trách nhiệm hơn trong việc cung cấp các dịch vụ. – Khó khăn:
Trên góc độ chính trị, hình thức PPP khó có thể chấp nhận vì đồng nghĩa với việc khu vực công có thể được coi là mất quyền kiểm soát quản lý. Những lo ngại bắt đầu được các chuyên gia đặt ra liệu khu vực công có đủ năng lực và kỹ năng để ứng dụng hình thức PPP và thiết lập môi trường pháp lý để khuyến khích thích đáng hay không?
Vì không thể chuyển giao rủi ro tuyệt đối nên có những lo ngại về năng lực chuyên môn để đảm bảo thực hiện dự án PPP của khu vực tư nhân. Việc mua sắm có thể tốn nhiều thời gian và chi phí. Các cấu trúc dài hạn tương đối không linh hoạt.
Phân tích SWOT phương thức đầu tư PPP
Điểm mạnh khi thực hiện đầu tư PPP
Ma trận SWOT là mô hình trong phân tích kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả tối ưu của doanh nghiệp áp dụng vào PPP có thể chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ của hình thức đầu tư PPP đối với phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam trong thời gian tới, cụ thể:
Thực tế không một Chính phủ nào có đủ khả năng để trang trải mọi khoản đầu tư và chi phí xây dựng và vận hành kết cấu hạ tầng. Vì vậy mối quan tâm của nhiều quốc gia hiện nay là việc tìm kiếm các hình thức đầu tư mới, có sự tham gia của tư nhân trong đầu tư, cung cấp dịch vụ công nhất là vào những thời điểm ngân sách bị suy giảm. Việt Nam cũng như vậy đầu tư PPP là một lựa chọn số một cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của đất nước.
Mặc dù ra đời từ lâu, nhưng đến năm 2009 hình thức PPP mới được ghi nhận tại Việt Nam. Từ đó đến nay, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 63/2018/NĐ-CP để thay thế Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP. Đây là một điểm mạnh của Chính phủ đối với hình thức PPP cụ thể được nêu trong Nghị định 63/2018/NĐ-CP đã có nhiều điểm mới so với Nghị định số 15/2015/NĐ-CP.
– Về nguồn vốn hỗ trợ chuẩn bị đầu tư
Theo Nghị định số 15/2015/NĐ-CP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm huy động một số nguồn vốn hợp pháp rồi cấp phát cho các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh. Nhưng theo Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh phải chủ động việc huy động vốn cho mục đích này. Nghị định mới đã chuyển trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc huy động vốn phục vụ cho công tác chuẩn bị đầu tư sang cho các bộ, ngành, UBND góp phần giảm thiểu những rủi ro liên quan, nhờ tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ quan liên quan.
– Về hình thức
Nhà nước tham gia dự án PPP, ngoài vốn góp và vốn thanh toán cho nhà đầu tư (NĐT), điểm mới trong Nghị định số 63/2018/NĐ-CP là Nhà nước có thể tham gia dự án PPP, bằng cách góp quỹ đất, trụ sở làm việc, tài sản kết cấu hạ tầng thanh toán cho NĐT, hoặc quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ được nhượng cho NĐT trong dự án áp dụng loại hình BT (xây dựng – chuyển giao).
Về vốn chủ sở hữu và vốn huy động của NĐT
Nghị định số 63/2018/NĐ-CP đã nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu của NĐT lên tối thiểu 20% so với mức 15% tại Nghị định số 15/2015/NĐ-CP đối với dự án có tổng vốn đầu tư đến 1.500 tỷ đồng. Với dự án có tổng đầu tư trên 1.500 tỷ đồng thì mức vốn chủ sở hữu theo quy định mới cũng được sửa theo hướng nâng cao hơn. Như vậy, trong quy định mới hướng đến việc lựa chọn NĐT có năng lực tài chính vững vàng hơn so với trước, tránh được tình trạng NĐT dựa phần lớn vào vốn vay ngân hàng để thực hiện dự án, dẫn đến những hệ lụy như mất khả năng thanh toán, làm đội vốn dự án, tăng thời gian khai thác dự án….
Điểm yếu khi thực hiện đầu tư PPP
Nghị định số 63/2018/NĐ-CP quy định “phạm vi”, thời hạn nhượng quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ cho NĐT được xác định trên cơ sở cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và NĐT. Quy định này đã gạt ra bên lề quyền lợi của người dân – tối thiếu là quyền được lựa chọn có sử dụng hay không dịch vụ cung cấp bởi dự án BT, vốn là nguồn gốc gây xung đột giữa người dân và chủ đầu tư của nhiều dự án giao thông thu phí như hiện nay.
– Việc thu phí của các dự án đầu tư theo hình thức PPP còn nhiều hạn chế, theo Kiểm toán Nhà nước nhiều sai phạm về thu phí của các dự án giao thông với số tiền vô cùng lớn, làm thất thu cho khu vực công, tạo gánh nặng cho người dân. Chưa có khung pháp lý điều chỉnh phí đường cao tốc, quy định phí và phương thức thu phí hoàn toàn vốn cho đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không, đường sắt.
– Tình trạng người dân còn chưa nắm rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong các dự án PPP, chưa hiểu thế nào là dự án PPP, trong khi đó phải thực hiện nghĩa vụ đóng phí, điều này dễ gây ra bức xúc đối với người dân.
– Một số công trình đầu tư chưa minh bạch, còn hạn chế trong thi công, kiểm tra, giám sát, chưa nhận được sự đồng thuận trong xã hội.
– Nhiều công trình PPP hiện nay không đáp ứng yêu cầu về chất lượng và tiến độ, không khai thác hết công năng, thiếu đồng bộ hoặc nhanh chóng xuống cấp.
– Thu hút đầu tư nước ngoài dưới hình thức PPP còn thấp, kém hiệu quả. Mô hình PPP dù đã thu hút được một số các NĐT lớn quan tâm tìm hiểu, song các ưu đãi, thỏa thuận giá đầu vào, lợi ích các bên chưa được làm rõ, mục tiêu dự án còn chung chung dẫn đến khó triển khai dự án.
Cơ hội và thách thức khi thực hiện dự án PPP
Thực tế việc phát triển phương thức đầu tư PPP rất phù hợp với phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, vì rõ ràng nó sẽ phần nào giảm đi áp lực tài chính cho Nhà nước, người dân lại nhận được nhưng cơ sở hay dịch vụ công tốt nhất.
Bạn có thể tham khảo tại Nghị định 63/2018/NĐ-CP về hình thức đầu tư đối tác công tư PPP
Qua tất cả những thông tin chúng tôi chia sẻ ở trên hy vọng tất cả sẽ có được những câu giải đáp cho những thắc mắc của mình về hình thức đầu tư PPP. Cho dù bạn tìm hiểu về PPP vì lí do gì thì những hiểu biết cụ thể nhất về PPP, về đặc điểm các dự án PPP hay thực trạng phát triển của mô hình đầu tư này tại nước ta ra sao, sẽ giúp hình dung, nắm rõ hơn về các dự án xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh và quản lý các công trình, cơ sở vật chất hạ tầng nhằm với mục đích cung cấp các dịch vụ công hiện nay.